CÀNG LÀ NGƯỜI THẬT SỰ TU HÀNH, CÀNG TRỞ NÊN GIẢN DỊ, BÌNH THƯỜNG, TÌM KHÔNG RA CÓ CHỖ NÀO ĐẶC BIỆT. Người học Phật , thiết yếu nhất là tu tâm thanh tịnh. Tâm địa thật sự thanh tịnh rồi , quang minh của quý vị là kim sắc , kim sắc quang minh. Tâm địa thanh tịnh , ma sẽ không thể phạm . Bản thân đầy đủ công đức , phước huệ , lại có chư Phật hộ niệm , oai thần gia trì , trên con đường Bồ Tát , quý vị nhất định là thuận buồm xuôi gió . Đây là cầu Phật phù hộ , cầu Phật gia trì bất nhị pháp môn . Hiện nay xã hôi không được tốt , yêu ma quỷ quái rất nhiều , thường xảy ra những việc kỳ quái , làm thế nào để được bình an ? Trong nhà có bộ kinh điển này , trong nhà cúng dường Thánh tượng A Di Đà Phật , hoặc là tượng Tây Phương Tam Thánh , quý vị đối với pháp môn Tịnh Độ , đối với kinh , đối với pháp tin sâu không nghi , yêu ma quỷ quái tự nhiên lánh xa . Quý vị tuy có cúng dường nhưng còn hoài nghi , yêu ma quỷ quái sẽ không sợ quý vị . Trong nhà có cúng dường hình Phật , phải chân thật tu trì mới được cảm ứng . Nếu một niệm tâm thanh tịnh , lập tức được cảm ứng đạo giao . Trong nhà cúng dường hình Phật linh hay không , phải xem tâm của quý vị có thành kính hay không . “ Thành ” không phải “ Thành ” thông thường , mà phải thật tin Phật , thật tin pháp , vây mới linh . Trong tâm có một tí không thanh tịnh , ma quỷ sẽ nhập vào xác thân bởi vì tương ưng với họ . Tâm của yêu ma quỷ quái không thanh tịnh , tâm người không thanh tịnh , nó sẽ dễ dàng nhập vào thân xác . Nếu quý vị là người thật sự niệm Phật , những thứ yêu ma quỷ quái này không những không dám đến quấy nhiễu , trái lại đối với quý vị rất tôn kính . Cho dù nó không đến bảo hộ quý vị , cũng lánh ra xa xa , không dám trêu chọc vì quý vị là người niệm Phật . Người niệm Phật được mười phương ba đời tất cả chư Phật hộ niệm , tất cả hộ pháp thiện thần phù hộ , đây là đạo lý nhất định . Càng là người thật sự tu hành , càng trở nên giản dị , bình thường , tìm không ra có chỗ nào đặc biệt . Phàm là người có ngôn ngữ , hành vi khác thường , kỳ kỳ quái quái , đều có vấn đề . Mỗi ngày thấy ma , thấy Phật , hay là cảm ứng thoại tướng ( tướng tốt ) , tự nhận rất tài giỏi , đều có vấn đề . NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT . ÂN SƯ TỊNH KHÔNG .
CHÚNG SANH NÀO XƯNG NIỆM HỒNG DANH CỦA NGÀI, NẾU LÚC GẶP PHẢI NGUY HIỂM LIỀN HOÁ THÀNH KIẾT TƯỜNG, GẶP PHẢI NẠN TAI THÌ BIẾN THÀNH AN LẠC. NHỮNG SỰ VIỆC LINH ỨNG CỦA BỒ TÁT, KHÔNG BÚT MỰC NÀO CÓ THỂ TẢ XIẾT Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát thệ nguyện sâu rộng không ngần, tâm Từ Bi quảng đại vô biên, thế nên Ngài phân thân khắp vi trần sát độ trong mười phương thế giới, tùy duyên hiện hình, tầm thinh cứu khổ, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng khổ não. Đặc biệt, với chúng sanh ở cõi Ta bà này, tâm bi mẫn của Ngài càng chí thiết, thế nên chúng sanh nào chí thành xưng niệm đều được Ngài cứu độ không bỏ sót một ai. Những năm gần đây, tất cả nhân loại thường gặp rất nhiều hoạn nạn, khổ ách, có muốn trốn thoát cũng khó đặng và cũng không có phương gì để tránh cho khỏi. Vì sao vậy? Vì trong thời hiện đại này, thế đạo nhân tâm xấu ác, đảo điên đến cực độ. Đối với cha mẹ là người có đại ân đức, sanh thành dưỡng dục mà còn ngang nhiên đề xướng bác bỏ hiếu đạo, kết bạn bè cùng với những kẻ ác nghịch giết cha hại mẹ. Thế nên, những ai sanh ra trong thời kỳ này, chẳng phải là việc buồn đau, đáng thương xót hay sao? Đại phàm những người có chánh tri chánh kiến, không một ai chẳng lưu tâm nghiên cứu Chánh pháp, không một ai chẳng lo tu trì Tịnh nghiệp để mong thoát ly cõi đời ác ngũ trược này, mau chóng dự vào Liên Trì Hải hội, như thế mới mong được thoát khỏi vô lượng thống khổ nơi cõi Ta bà này và được hưởng thọ sự an vui nơi Lạc quốc. Nhưng đối với chúng ta, khi chưa được về Lạc quốc và vẫn còn đắm chìm trong cảnh khổ nơi Ta Bà thì cần phải có Ngài để làm nơi nương tựa. Ngài chính là Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, vì Bồ Tát đối với cõi Ta Bà đau khổ, nhất là trong thời kỳ mạt pháp này, Ngài đặc biệt sanh khởi tâm Đại từ vô lượng, vận dụng lòng Đại bi đồng thể. Đối với tất cả thứ khổ nạn, Ngài luôn luôn thùy từ cứu độ. Thế nên, chúng sanh nào xưng niệm hồng danh của Ngài, nếu lúc gặp phải nguy hiểm liền hóa thành kiết tường, gặp phải nạn tai thì biến thành an lạc. Những sự việc linh ứng của Bồ tát không bút mực nào có thể tả xiết. -Ấn Quang Đại Sư- Nguồn: Tài Trầm
TRÊN HOA SEN CÓ TÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT! Thế giới đó là thế giới Liên Hoa. Đến đâu cũng thấy hoa sen, hoa sen từ đâu đến? Mỗi người trong mười phương thế giới, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, khi họ phát tâm này liền có một đóa sen. Trong thế giới Cực Lạc, đến đâu cũng thấy ao Thất Bảo, trong ao Thất Bảo có hoa sen, có người phát tâm niệm Phật, thì hoa của họ càng lớn, càng to. Tương lai Vãng sanh, Phật A Di Đà dùng đóa hoa này của họ, trên hoa sen đó có tên của họ, cầm đóa hoa đó đi tiếp dẫn họ, ánh sáng màu sắc hoa lớn, hay nhỏ đều do công phu niệm Phật của mỗi người mà thành tựu. Chúng tôi thấy hoa sen người khác lớn, ánh sáng màu sắc đẹp hơn của mình, là do người ta niệm Phật thâm sâu hơn mình. Hoa sen từ đâu mà có? Đến đâu cũng đều nhìn thấy hoa sen thì sẽ biết số người trong mười phương vãng sanh đến thế giới cực lạc là bao nhiêu? Là Liên Hoa Hoá Sanh. Chủ Giảng: Hoà Thượng Thượng Tịnh Hạ Không. XIN THƯỜNG NIỆM NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
CẦM ĐIỆN THOẠI MỖI NGÀY..BỐ THÍ CÂU “ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT “ ... ĐÓ LÀ BỐ THÍ PHÁP. Phật nói không hề sai, bố thí tài không bằng pháp thí. Nếu chúng ta muốn tu công đức thù thắng, nhất định phải tu bố thí pháp. Vậy không biết giảng kinh thì làm sao bố thí pháp? Không biết giảng kinh, nhưng chúng ta biết niệm A Di Đà Phật. Suốt ngày bố thí pháp này cho biết bao người trong khi chúng ta nói chuyện với họ. Đó là bố thí cho họ. Hiện tại chúng ta mỗi ngày đều không rời điện thoại. Khi vừa cầm đến điện thoại thì “A Di Đà Phật”, mỗi câu A Di Đà Phật gieo vào A Lại Da Thức của đối phương, tương lai họ sẽ nhờ câu A Di Đà Phật này mà vãng sanh bất thoái thành Phật. Đặc biệt khi duyên thù thắng, một đời này họ thành tựu. Nếu duyên không thù thắng thì đời sau thành tựu, nhất định được độ, nhất định vãng sanh. Ngày nay người tin theo tà giáo không ít. Một số đồng tu hỏi tôi: “Người tà giáo muốn xin sách chúng ta, chúng ta có nên cho họ hay không?”. Cứ cho đi. Vì sao? Cho họ chính là độ họ. Dù họ tà ác thế nào, khi nghe được âm thanh danh hiệu A Di Đà Phật, thấy hình tượng A Di Đà Phật thì tà cũng được độ. Ngay đời này tà, họ phải chịu quả báo địa ngục A Tỳ. Quả báo chịu xong vẫn cứ gặp được Phật Pháp, vẫn cứ được độ. HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG Xin Thường Niệm Nam Mô A Di Đà Phật
LỚP CẤP TỐC - nhưng cũng rất hiếm có, thành tựu của lớp cấp tốc tuyệt đối không thua gì với người tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật” là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc tu hành của bộ kinh này, là mấu chốt của việc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tam bối vãng sanh chúng ta hết thảy đều có phần, mấu chốt là "ở nguyện, ở hạnh, ở công đức", việc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì! Nguyện hạnh công đức ở đâu vậy? Ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, ở ngay trong công việc, ngay trong xử sự đối người tiếp vật. Cho nên chúng ta đối với kinh giáo không thể không thuộc. Chính như ở trong kinh Phật cũng thường nói, dạy chúng ta phải thâm giải nghĩa thú, chúng ta hiểu kinh điển mà cạn thì không được. Hiểu cạn cợt thì bạn vãng sanh phẩm vị sẽ không cao, bạn phải thâm giải, càng thâm sâu càng tốt, phải hiểu cho được thấu triệt, như vậy thì vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc phẩm vị sẽ cao. Phẩm vị cao thấp có quan hệ rất lớn, vãng sanh phẩm vị thấp thì đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thời gian chứng đến Phật quả cứu cánh sẽ dài. Nếu vãng sanh phẩm vị cao, vậy thì bạn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc tương lai thành Phật thời gian sẽ ngắn, quan trọng là ở chỗ này. Nhưng bất luận là cách nói như thế nào chỉ cần có thể vãng sanh thì đúng là nhân duyên hiếm có, cho dù là Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sanh. Chúng ta xem thấy trong Quán Kinh, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, hoa nở thấy Phật thì cần bao nhiêu thời gian? Mười hai kiếp, 12 kiếp theo chúng ta thấy thì rất dài, nhưng đối với hầu hết Bồ-tát, trong tâm người tu hành mà xem thì quá ngắn. Bạn xem Kinh Hoa Nghiêm nói về Viên Giáo Sơ Trụ, chứng được Viên Giáo Sơ Trụ là Pháp Thân Bồ-tát, trải qua 41 cấp bậc, phá 41 phẩm vô minh, chứng được Phật quả cứu cánh thì cần đến bao nhiêu thời gian? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Bạn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc 12 kiếp thì đã thành tựu rồi, bạn mới hiểu được sự thù thắng của thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn mới biết được vì sao mà chư Phật Như Lai lại tán thán Tây Phương Tịnh Độ, vì quá hiếm có, bạn đi không được thì cũng hết cách. Còn nếu bạn đi được thì so sánh với hết thảy thế giới, nơi đó là lớp cấp tốc, cấp tốc nhưng cũng rất hiếm có, thành tựu của lớp cấp tốc tuyệt đối không thua gì với người tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp!! A Di Đà Phật Trích PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH giảng giải (tập 333) Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
KHUYÊN KHẮP MỌI NGƯỜI TRÁNH VIỆC ĂN THỊT CHÚNG SINH (HT. Thích Trí Tịnh) Lúc 10 tuổi, tôi thấy cảnh người ta đem con chim dồng dộc còn đang sống nhổ lông làm thịt. Từ đó trở đi, tự ăn chay một mình, trong khi mọi người trong nhà đều ăn mặn. Có người hỏi tại sao không ăn thịt? Tôi chỉ trả lời “Không ăn được! Vậy thôi!” Bởi vì, khi thấy đồ mặn là thấy cái khổ chết hiện lên. Cá thì bị đập đầu, xẻ bụng, đánh vẩy; gà vịt thì bị cắt cổ, nhổ lông. Từ khi ăn chay thì tâm mình thay đổi hẳn, thấy con gà, con vịt liền khởi lòng thương. Khi thấy nó bệnh hay bị thương nơi đâu thì đều để tâm chăm sóc. Lúc trước chưa biết ăn chay, thấy mấy đứa bạn trong xóm cùng trang lứa như mình, khoảng 7 đến 10 tuổi, sắm giàng thun bắn chim thì mình cũng sắm, dù chưa biết bắn con gì. Đến khi ăn hay rồi thì bỏ giàng thun, thấy con vật thì lại thương. Và khi mấy đứa bạn bắn chim thì tôi liền tìm đất đá liệng làm động để nó bay đi. Thậm chí, thấy người ta rình bắt chó làm thì thì cũng cố tìm cách đuổi nó chạy đi, không sợ họ rầy, họ giận. Vì mình thương chugns nên tự phát ra hành động như vậy để bảo vệ sinh mạng chúng, không nỡ nhìn chúng bị cắt cổ mổ bụng. Do vậy, ăn chay rất tốt. Lúc trước nghĩ những con vật là món ăn nên đâu có thương. Từ khi biết ăn chay rồi thì tình thương phát sinh. Chính tình thương này là tình thương của từ bi, của các bậc Hiền Thánh. Có người cho rằng: Ăn chay suy dinh dưỡng. Như tôi ăn chay từ lúc nhỏ, cho đến bây giờ sống đến 94 tuổi. Điều này chứng minh ăn chay không suy dinh dưỡng. Nhớ lại lúc tôi vào bệnh viện chữa bệnh mắt, bác sĩ bảo tôi ăn chay nên bệnh. Tôi nói: Bốn năm người nằm chung phòng có ai ăn chay không? Cả bệnh viện này, bao nhiêu bệnh nhân có mấy người ăn chay? Như vạy, ăn chay bị bệnh là thiểu số, còn số ăn thịt bị bệnh là đa số. Sao không nói bệnh do ăn mặn mà ra? Nói đúng hơn, họ bênh vực chuyện ăn thịt cá, che đậy lỗi mình. Những lời nói ấu đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết sai lầm. Đức Phật nói sát sinh là nghiệp nhân chính, nặng nhất tạo ra quả sinh tử luân hồi khổ của chúng sinh. Trong pháp Phật dạy: không sát sinh đứng đầu, còn muốn ăn thịt phải tránh ba điều: 1.Không thấy giết 2.Không nghe giết 3.Không nghi giết Không nghi giết khó lắm! Đĩa cá, đĩa thịt để trước mặt, lại bảo không nghi người ta giết, điều đó không thể có được. Bởi vì, mình muốn ăn nên họ nấu, trước khi nấu phải ra chợ mua, rồi người đi bắt, đi giết để cung cấp cá thịt cho người mua, chỉ có thịt mà con thú ăn còn dư, mình đi dọc đường thấy đem về thì mới được. Lúc ban đầu, Phật chỉ dạy không sát sinh chớ không cấm việc ăn thịt, vì cấm thì họ không dám đến, không dám đến thì không thể giáo hóa được. Nhưng về sau Phật cấm dứt hẳn, như trong kinh Phạm Võng nói: “Luận về người ăn thịt thì mất lòng từ bi, dứt giống Phật tánh. Người ăn thịt mắc vô lượng tội”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người chết làm dê, dê chết làm người, xoay vần vay trả không dừng nghỉ”. Thế nên, chúng ta phải ăn chay, phóng sinh để cho nghiệp sát bớt đi. Có người nói: “Tôi không ăn, nhưng họ cũng bán đầy ngoài chợ! Nhưng nếu ngày nay, được nhiều người không ăn thịt cá thì ngày mai họ ít giết, vì bán ế. Còn ngày nay, nếu thêm nhiều người ăn thịt cá thì họ sẽ giết thêm; vì ngày nay họ bán đắt, thiếu thịt để bán. Tất cả những lời nói đó đều là tà kiến, nói chỉ bênh vực cái lỗi ham thích ăn thịt chúng sinh mà thôi. -Trích Hương Sen Vạn Đức của HT. Thích Trí Tịnh -
BỐ THÍ KHÔNG QUAN TRỌNG TIỀN NHIỀU HAY TIỀN ÍT, TÂM BẠN CHÂN THÀNH THÌ CÔNG ĐỨC LIỀN VIÊN MÃN Lão sư dạy tôi tu ba loại bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Ba loại bố thí đều cần đến tiền, tôi làm gì có tiền. Lão sư dạy tôi, nếu tận hết sức bố thí một đồng tiền, bố thí một xu tiền mà bản thân bạn có được thì sự bố thí tài đó của bạn là viên mãn. Điều này khiến tôi nhớ lại trong Liễu Phàm Tứ Huấn có một câu chuyện nhỏ, có một cô gái khi còn nghèo khó đã bố thí hai đồng tiền, về sau cô được làm hoàng hậu. Khi đó vị trụ trì chùa đã làm hồi hướng cho cô, giúp cô tu phước. Đến khi cô được làm hoàng hậu, mang nghìn lượng vàng đến ngôi chùa đó để cúng dường, lão Hòa thượng không thèm để ý đến cô, chỉ bảo một người đồ đệ đi làm hồi hướng cho cô mà thôi. Vì thế cô thấy rất kỳ lạ, cô nói: “Khi tôi còn nhỏ đến ngôi chùa này chỉ cúng dường có hai đồng thôi mà Hòa thượng Ngài đích thân hồi hướng cho tôi.” Lão Hòa thượng liền nói: “Số tiền đó tuy ít nhưng tâm địa của hoàng hậu là chân thành. Chân thành nên có vô lượng công đức, ta không làm hồi hướng thì có lỗi với người. Bây giờ tuy hoàng hậu bố thí rất nhiều tiền nhưng với tập khí ngạo mạn, hoàng hậu đã không còn tâm cung kính nữa, cho nên đồ đệ của ta làm hồi hướng cho người là được rồi.” Đây chính là việc bố thí không quan trọng ở tiền nhiều hay ít, tâm của bạn chân thành, tâm viên mãn thì công đức là viên mãn. Chúng ta hiểu được đạo lý này, không phải người nghèo thì không thể tu phước, người nghèo thường tu đại phước. Họ bố thí một hai đồng, người giàu có thì bố thí mấy chục ngàn mấy trăm ngàn, nhưng cũng không sánh bằng công đức của người nghèo. Thật vậy, không giả chút nào, vậy nên phải học. Trích từ PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH giảng giải (tập 342) Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không Thời gian: Khởi giảng năm 1998 Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ Nguồn Hòa Thượng Tịnh Không 淨 空 法 師 A Di Đà Phật A Di Đà Phật A Di Đà Phật nguồn: FB Hoa Quang, sưu tầm
ĐẶT LƯNG XUỐNG GIƯỜNG LÀ NGHĨ "TÔI MUỐN VÃNG SANH, TÔI SẮP VÃNG SANH". THẬT CÓ MỘT NGÀY PHẬT ĐẾN TIẾP DẪN Bình thường phải buông xả, điểm này rất quan trọng. Phút lâm chung mới có thể nắm chắc. Bình thường phải hạ công phu, chân thật cảnh tỉnh chính mình. Tức là mỗi ngày đi ngủ, liền nghĩ đến “Tôi sắp vãng sanh rồi”. Ngày tiếp theo tỉnh lại, chưa vãng sanh, thì lại lặp lại. Phải thường xuyên suy nghĩ theo cách này. Ngày ngày đều nghĩ vãng sanh, vừa đặt lưng xuống là nghĩ “Tôi muốn vãng sanh”. Ý niệm này tốt, đừng nghĩ chuyện khác. Cứ như thế mà cố gắng huấn luyện chính mình, phải huấn luyện bản thân thành một thiện hữu chân thật, mong muốn cầu vãng sanh, như thế mới tốt. Vì vậy, ngày ngày đều phải nghĩ đến lúc thật có một ngày Phật đến tiếp dẫn. Khôn ngoan hoan hỷ,làm sao có thể sợ hãi được! Hoà Thượng Tịnh Không A Di Đà Phật
Người ta hỏi bạn vì sao lại tu Tịnh Độ? Trong vô lượng pháp môn, ưa thích một pháp môn nào cũng tốt, không có chuyện không tốt, nhưng chúng ta phải giữ nguyên tắc mà Thế Tôn đã giáo huấn, tuyệt đối không phê bình pháp môn của người khác. Đây là học từ đâu vậy? Là học từ Kinh Hoa Nghiêm, bạn xem Thiện Tài đồng tử 53 tham, pháp môn mà 53 vị thiện tri thức tu đều không tương đồng, không giống nhau, nhưng thái độ tu học của những vị thiện tri thức này đều là TỰ MÌNH KHIÊM HƯ TÁN THÁN NGƯỜI KHÁC. Đây là làm hình mẫu cho chúng ta thấy, là làm gương. Cho nên chúng ta đối với pháp môn chính mình tu thì khiêm hư, người ta hỏi bạn vì sao lại tu Tịnh Độ? “Tôi rất dốt, tôi không thông minh, tôi không có đủ thông minh trí huệ để đi nghiên cứu kinh giáo, cũng không có thiện căn sâu dày để đi tham thiền, đành phải niệm A Di Đà Phật thôi”. "Đối với pháp môn của người khác thì tán thán, tự trách không bằng người"! những lời này đều là thật không phải giả. Lão lão thật thật mà tu cái pháp môn này, hy vọng có thể trong thời gian không dài lắm, 3-5 năm chúng ta có thể lấy được phần Tây Phương Tịnh Độ! A DI ĐÀ PHẬT PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
Người ta hỏi bạn vì sao lại tu Tịnh Độ? Trong vô lượng pháp môn, ưa thích một pháp môn nào cũng tốt, không có chuyện không tốt, nhưng chúng ta phải giữ nguyên tắc mà Thế Tôn đã giáo huấn, tuyệt đối không phê bình pháp môn của người khác. Đây là học từ đâu vậy? Là học từ Kinh Hoa Nghiêm, bạn xem Thiện Tài đồng tử 53 tham, pháp môn mà 53 vị thiện tri thức tu đều không tương đồng, không giống nhau, nhưng thái độ tu học của những vị thiện tri thức này đều là TỰ MÌNH KHIÊM HƯ TÁN THÁN NGƯỜI KHÁC. Đây là làm hình mẫu cho chúng ta thấy, là làm gương. Cho nên chúng ta đối với pháp môn chính mình tu thì khiêm hư, người ta hỏi bạn vì sao lại tu Tịnh Độ? “Tôi rất dốt, tôi không thông minh, tôi không có đủ thông minh trí huệ để đi nghiên cứu kinh giáo, cũng không có thiện căn sâu dày để đi tham thiền, đành phải niệm A Di Đà Phật thôi”. "Đối với pháp môn của người khác thì tán thán, tự trách không bằng người"! những lời này đều là thật không phải giả. Lão lão thật thật mà tu cái pháp môn này, hy vọng có thể trong thời gian không dài lắm, 3-5 năm chúng ta có thể lấy được phần Tây Phương Tịnh Độ! A DI ĐÀ PHẬT PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG
PHẢI CÓ TRÍ TUỆ VÀ PHƯỚC BÁO LỚN ĐẾN CỠ NÀO NÊN BÂY GIỜ QUÝ VỊ MỚI GẶP ĐƯỢC "TRÌ DANH NIỆM PHẬT". GẶP ĐƯỢC MÀ CHẲNG TIN TƯỞNG, CHẲNG CHỊU THỰC HÀNH THÌ CHƯ PHẬT ĐỀU THAN THỞ: "TRĂM NGÀN VẠN KIẾP KHÓ GẶP, NAY HẮN GẶP ĐƯỢC MÀ KHÔNG TIN TƯỞNG, Ở NGAY TRƯỚC MẶT MÀ BỎ LỠ, ĐÓ LÀ CHUYỆN ĐÁNG TIẾC KHÔNG CHI SÁNH BẰNG ! "Trì danh niệm Phật là đường tắt nhất trong các con đường tắt. Nói cách khác, là đường lối tu hành thành Phật gần nhất. Trong vô lượng pháp môn, quý vị có thể tìm ra một con đường gần nhất đâu phải dễ dàng! Điều này đòi hỏi phải có trí huệ và phước báo cỡ nào, nhưng nay chúng ta bất ngờ vớ phải, gặp gỡ. Đã gặp gỡ, nếu quý vị có thể tin tưởng và thực hành thì sẽ thành Phật trong một đời này. Chư Phật hộ niệm, chư Phật tán thán. Đã gặp gỡ mà quý vị chẳng tin tưởng, chẳng chịu thực hành, chư Phật đều than thở: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ! Đời này hắn đã được gặp mà chẳng tin tưởng, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, đó là chuyện đáng tiếc không chi bằng!” HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG A DI ĐÀ PHẬT
MỖI MỘT NGƯỜI ĐỀU CÓ RẤT NHIỀU OÁN THÂN TRÁI CHỦ LUÔN ÂM THẦM ĐI THEO BÊN CẠNH ĐỂ CHỜ ĐỢI ĐẾN NGÀY NÀO ĐÓ VẬN KHÍ MẤT HẾT THÌ CHÚNG SẼ ĐẾN ĐỂ MÀ ĐÒI NỢ. Phàm là những người thường hay hành thiện tích đức, hoặc những người chân thật tu hành, thì lúc này vận của họ rất tốt, khí rất vượng nên oán thân trái chủ chẳng dám sinh sự với họ. Chúng luôn âm thầm theo bên cạnh để mà chờ đợi, chờ đến ngày nào đó vận của họ mất hết, suy đến cùng cực thì chúng liền đến để gây rắc rối, hướng về họ để mà đòi nợ. Chúng dùng phương pháp gì để mà dụ hoặc anh? Chờ đến khi anh mạng chung, khí trong người suy đến cùng cực, thì chúng liền biến thành người nhà quyến thuộc đã chết trước đây của anh, đến để dẫn anh đi theo chúng. Nếu anh tin mà đi theo chúng thì chúng sẽ đưa anh đến 1 nơi thần không biết, quỷ không hay rồi xuống tay với anh, khiến cho anh mãi mãi không thể siêu sinh. Đặc biệt là những người học Phật, những oán thân trái chủ biết được trước đây anh từng học Phật, biết anh luôn ưa thích Phật, Bồ Tát. Nên chúng biết nếu chúng biến thành những quyến thuộc đã mất của anh đến để đưa anh đi thì anh nhất định sẽ phớt lờ chúng, sẽ chẳng để bị chúng gạt. Thế là chúng liền biến ra chư Phật, Bồ Tát đến để dụ hoặc anh. Những yêu ma quỷ quái này rất có năng lực, có khả năng biến ra đủ thứ thân tướng. Vậy thần Hộ Pháp sao không ngăn cản chúng lại? Vì thần Hộ Pháp thấy được trong đời quá khứ anh đã thiếu nợ chúng, ngày nay chúng đến đòi mạng là phải nên, cho nên họ mở 1 mắt, nhắm 1 mắt cho qua. Lúc này có cứu được anh hay không thì còn phải xem phước phần, duyên phần của chính anh thế nào đã. Tuy nhiên, thầh Hộ Pháp có 1 cách quản chế các loại yêu ma quỷ quái này rất nghiêm khắc. Đó là chúng có thể biến ra đủ đạng thân, nhưng chúng không được phép biến hiện ra bổn tôn. Nếu khi chúng biến hiện ra bổn tôn thì thần Hộ Pháp liền đến để can thiệp ngay, không cho chúng ở đó mà tác quái. Vậy cái gì là bổn tôn? Tôi cả đời niệm A Di Đà Phật, đến lúc lâm chung chỉ trông chờ A Di Đà Phật đến tiếp dẫn mà thôi, vậy thì A Di Đà Phật chính là bổn tôn. Do đó, chúng có thể biến ra Thích Ca Mâu Ni Phật, có thể biến ra Dược Sư Phật, nhưng không được phép biến ra A Di Đà Phật. Nếu chúng chỉ biến ra các vị Phật khác mà không phải là A Di Đà Phật, khi đó anh lại đi theo chúng thì các vị thần Hộ Pháp sẽ phớt lờ không để ý đến, cũng không can thiệp. Vì sao? Vì chúng chẳng có giả mạo, chẳng có phạm pháp. Nhưng nếu chúng biến hiện ra thành A Di Đà Phật thì là phạm pháp. Chúng ta 1 đời thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, thì chúng chẳng dám biến thành Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây thì phải coi lúc sanh tiền chổ anh niệm đến là vị Phật, Bồ Tát nào làm chủ. Chữ "chủ" ở đây chính là chỉ cho bổn tôn, đây thì yêu ma quỷ quái chẳng dám biến hiện. Tất cả những việc này đều là thường thức, chúng ta cần phải nắm vững. Nếu không thì vào thời khắc quan trọng lúc lâm chung rất dễ dẫn đến sai lầm, đây thì là quá đáng tiếc. Khi đã mắc phải sai lầm rồi thì chẳng biết đến đời nào, kiếp nào mới lấy lại được thân người, mới gặp lại được Phật pháp. A Di Đà Phật! _ Pháp sư Tịnh Không_
NẾU KHÔNG ĂN CHAY, DÙ CHO NIỆM PHẬT NHƯNG CHỈ LO SƯỚNG MIỆNG, VUI BỤNG, ĂN ĐẦY THỨC ĂN TANH HÔI, VẪN CHƯA THỂ ĐẠT ĐƯỢC LỢI ÍCH THẬT SỰ NHỜ HỌC PHẬT VẬY. Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp; đản thính đồ môn dạ bán thanh” (Muốn biết đao binh trong cõi thế, hãy nghe tiếng lò mổ giữa đêm trường) "Phàm là người học Phật thì có một việc rất nên chú ý là kiêng ăn mặn vì ăn mặn sẽ tăng trưởng cơ duyên giết hại. Con người và hết thảy động vật cùng sống trong vòng trời đất, tâm tánh vốn bình đẳng, chỉ vì nhân duyên ác nghiệp đến nỗi hình thể sai khác quá xa. Nếu đời này quý vị ăn thịt chúng nó, đời mai sau chúng nó sẽ ăn thịt quý vị. Oán hờn báo đền mãi, cơ duyên giết chóc đời đời chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu như ai nấy đều ăn chay thì sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên giết hại. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng chỉ lo sướng miệng, vui bụng, ăn đầy thức ăn tanh hôi, vẫn chưa thể đạt được lợi ích thật sự nhờ học Phật. ... Kế đấy, cần phải nỗ lực ăn chay. Con người và động vật vốn bình đẳng, nỡ nào giết hại tánh mạng chúng để thỏa mãn miệng, bụng mình? Thân ta vừa bị dao cắt phải một chút liền cảm thấy đau khổ. Mới nói hoặc nghĩ đến đó, tim gan đau buốt, nỡ nào giết chúng ăn thịt? Huống chi kẻ sát sanh ăn thịt dễ khởi cơ duyên giết hại. Tai kiếp đao binh trong đời này đều là do đây mà có! Trong cõi đời, khá nhiều kẻ tuy hiểu rõ đạo lý Phật pháp mà vẫn thấy kiêng giết, ăn chay là chuyện khó làm. Năm Dân Quốc thứ mười (1921), tôi đến Nam Kinh thăm một người bạn. Ông ta mời ông Ngụy Mai Tôn đến gặp tôi. Ông Ngụy tin Phật, niệm Phật, nhưng bảo là chưa thể ăn chay. Tôi dặn ông ta hãy đọc kỹ Bài Văn Kêu Gọi Tu Bổ Ao Phóng Sanh của chùa Cực Lạc ở Nam Tầm đăng trong bộ Văn Sao mấy chục lượt sẽ ăn chay được. Bởi lẽ, trong bài văn đó, trước hết nói chúng sanh và Phật tâm tánh chẳng hai. Trích khai thị từ Đại Sư Ấn Quang A Di Đà Phật.
Có cơ duyên để tiêu trừ thì là việc tốt, không phải việc xấu. Trong lúc nhận chịu, đối với thuận cảnh thiện duyên chúng ta không khởi tâm tham ái, đối với nghịch cảnh ác duyên thì không sanh tâm sân hận, như vậy nghiệp của chúng ta sẽ được tiêu trừ. Nghiệp trong đời quá khứ tạo ra thì nhất định phải tiêu trừ, NẾU BẠN KHÔNG TIÊU TRỪ THÌ KHÔNG RA KHỎI TAM GIỚI! Tu học pháp môn niệm Phật là đới nghiệp vãng sanh, chúng ta cũng hy vọng cố gắng hết sức để mang ít một chút. Cho nên có cơ duyên để tiêu trừ thì là việc tốt, không phải việc xấu. Càng là sự việc khó nhẫn, mà bạn có thể nhẫn thì bạn tiêu trừ được càng nhiều, tiêu được càng nhanh. Phải nên biết, bất luận là bị sỉ nhục, giày vò như thế nào, hết thảy đều là tiêu nghiệp chướng của chính mình. Gặp phải hoàn cảnh như thế nào thì cũng buông xuống hết thảy, cái gì cũng không nên nghĩ đến, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngày nào được vãng sanh thì Phật Bồ-tát sẽ an bài, không cần chúng ta phải bận tâm, cũng không cần phải lo lắng, công phu đạt rồi thì tự nhiên sẽ thành tựu. Phẩm kinh này đã nói, điều này quan trọng hơn bất cứ thứ gì!! A Di Đà Phật Pháp sư TỊNH KHÔNG
Mời mở kinh ra, luận quán trang thứ nhất, hàng thứ năm từ dưới đếm lên, bắt đầu xem từ câu sau cùng. “Kim thả trí ngộ, chỉ luận kỳ mê, kỳ thiên nhân tu la, tuần thiện phẩm nhi khinh thăng. Địa ngục quỷ súc, do ác nghiệp nhi trầm trụy, kỳ trụy chi quỷ súc, hữu khinh trọng chi phân, nhi trầm hồ địa ngục, vô đại tiểu chi biệt. Tổng do vô minh chi điên đảo, trí hữu ngục hộ chi chánh biên. Cố tri phàm phu do muội tâm nguyên, nhi tùy vọng niệm, vọng tạo ác nghiệp, vọng thọ khổ báo. Bất bằng chí thánh chi đại bi, hạt giải đảo huyền chi cực khổ”, đến đây là một đoạn. Đoạn này nói về nguồn gốc của luân hồi lục đạo, quả thật có lục đạo, nó từ đâu mà có? Căn nguyên ở đâu? Chúng ta phải biết. Ngày xưa Tôn giáo Ấn độ rất phát triển, tu học cũng có thành tựu. Lúc Thế Tôn xuất thế có rất nhiều ngoại đạo, nhà Phật gọi ngoại đạo là từ sự lý kiến lập nên danh từ này, tuyệt đối không có ý xem khinh. Ngoại đạo là chỉ cầu pháp ngoài tâm, phàm là cầu pháp ngoài tâm đều gọi là ngoại đạo. Nếu chúng ta học Phật không biết cầu trong tự tánh, cũng cầu bên ngoài tâm, đó cũng là ngoại đạo. Chúng ta cần phải hiểu đạo lý này, phải thấu triệt hàm nghĩa của danh từ thuật ngữ. Những người này tu định, cũng có định công tương đối, nhà Phật gọi là thiền định thế gian, tứ thiền bát định họ đều đạt được. Người tu hành của rất nhiều Tôn giáo, họ có khả năng sanh vào trời tứ thiền, có năng lực sanh vào trời tứ không. Trong cảnh giới định lực thậm thâm, họ thấy rõ ràng tình hình của lục đạo. Họ thấy tình hình trong lục đạo, không phải suy tưởng, cũng không phải dùng toán học để suy tính. Cảnh giới trong định là cảnh giới hiện lượng, thấy tận mắt, nghe tận tai. Nhưng lục đạo từ đâu mà có? Vì sao hình thành? Họ không biết. Như hiện tại chúng ta sống ở thế gian này, xã hội này, địa cầu này, mọi sự vật chúng ta đều thấy một cách rõ ràng, đều nghe một cách minh bạch, đều rất thấu triệt, nhưng địa cầu từ đâu mà có? Những sanh mạng trên địa cầu từ đâu mà có? Chúng ta đều không biết. Những người ngoại đạo tu hành đó, đối với tình hình trong lục đạo giống như chúng ta hiện nay vậy, biết có nó nhưng không biết tại sao có nó. Nguyên do tại sao, mọi người đều muốn biết. Giống như người trên địa cầu này vậy, có nhiều nhà khoa học, nhiều nhà triết học, họ quan sát rồi giải thích cho chúng ta, địa cầu khởi nguồn ra sao? Sanh mạng từ đâu mà có? Họ có rất nhiều cách nói, nhưng những cách nói này đều là suy đoán, suy tưởng trong quan sát, không phải sự thật. Mong cầu, dục vọng này trong Phật pháp gọi là cảm của chúng sanh. Họ muốn biết, muốn minh bạch. Muốn này chính là cảm, Phật Bồ Tát liền ứng. Nếu không muốn, dù Phật Bồ Tát đến nói với quý vị, quý vị cũng không nghe. Còn như rất muốn biết, Phật Bồ Tát liền đến. Vì sao Phật Bồ Tát đến thế gian này? Là để nói cho chúng sanh biết rõ ràng minh bạch nguyên do đạo lý này mà thôi, chân tướng của nhân sinh vũ trụ, đây là dạy học của Phật pháp. Vừa mở đầu quán luận, trước tiên nói với chúng ta về căn nguyên của pháp tánh, sau đó mới nói về duyên khởi của pháp giới, pháp giới là như thế nào. Đoạn thứ ba càng nói càng mật thiết với cuộc sống hiện tại của chúng ta, nguồn gốc của lục đạo. Câu đầu tiên nói: “kim thả trí ngộ”. Cảnh giới ngộ là cảnh giới Phật Bồ Tát, là nhất chân pháp giới. Bây giờ để qua một bên không nói đến, chỉ chuyên nói về lục đạo. “Chỉ luận kỳ mê”, hiện nay chỉ nói sự mê muội của chúng sanh, mê mất nhất niệm tâm tánh. Chúng ta mê mất nhất niệm, mới có nhiều niệm. Mê mất tự tánh, tự tánh biến thành gì? Tự tánh biến thành a lại da. Chúng ta không gọi nó là tự tánh, mà gọi là a lại da, a lại da là danh từ khi mê mất tự tánh. Thật ra tự tánh có mê ngộ chăng? Không có, mê ngộ do con người. Những kinh văn này, chúng ta phải lãnh hội tường tận ý nghĩa của nó.
Mời mở kinh ra. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, trang thứ nhất phần quán luận, bắt đầu xem từ giữa hàng thứ hai, chúng ta đọc qua một lượt đoạn văn này. “Chư Phật ngộ chi, tắc tam thân viên hiển, chúng sanh mê thử, tắc lục đạo tuần hoàn, tuy mê ngộ chi hữu thù, nhi tâm tánh chi vô biệt. Cố đổ đức vân, chỉ hư không thế giới, tất ngã tự tâm”. Đoạn này, tuy ở trước đã nói, nhưng chưa hết ý, bây giờ chúng ta bổ sung thêm một chút. Đây là nói rõ về nguyên khởi của pháp giới, trong tất cả pháp đều thuộc về pháp căn bản, đây là trí tuệ chân thật. Nguyên khởi của pháp giới như thế nào? Đều ở chỗ mê ngộ. Khi ngộ tự tánh hiện ra, chúng ta gọi là nhất chân pháp giới. Nếu mê mất tự tánh, từ trong mê hiện ra chính là mười pháp giới. “Mười” không phải chữ số, biểu trưng vô lượng, thực tế mà nói là vô lượng vô biên pháp giới. Vì sao vậy? Vì mỗi chúng sanh hiện một pháp giới. Chúng sanh vô biên pháp giới sẽ vô biên. Không những mỗi chúng sanh hiện một pháp giới, ngày nay chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật là mỗi niệm hiện pháp giới, một ý niệm chính là một pháp giới, liền hiện một pháp giới. Từ chỗ này quý vị quan sát tường tận, mỗi người chúng ta ngay trong đời này, trong mấy mươi năm ngắn ngủi, pháp giới không tương đồng. Đại sư Thiên Thai giảng Kinh Pháp Hoa, nói với chúng ta “bách giới thiên như”, là nói một cách rõ ràng về điều này. Chúng ta phải ngộ nhập từ mấy câu nói của ngài, mới đạt được thọ dụng, mới khế nhập chân tướng sự thật. Nhưng niệm niệm bất khả đắc, do đó pháp giới sự có- lý không, tướng có- tánh không. Đạo lý này rất thâm sâu. Chẳng những không có danh, đến tướng cũng không có, ở trước nói rất hay “vô tướng vô danh”. Tướng là y tha khởi, bởi vậy không có, mộng huyễn bào ảnh. Danh là biến kế sở chấp tánh, càng hư vọng. Duy thức tông nhìn thấu chân tướng sự thật, cho nên duy thức, họ chỉ thừa nhận giữa vũ trụ có thức, ngoài thức ra không có gì nữa. Thức là gì? Chư vị thử nghĩ xem thức là gì? Duy thức tông giải thích, thức là liễu biệt, là phân biệt. Tôi nói thêm với chư vị một vấn đề, quý vị thử nghĩ xem, thức là nhân quả bất không, chuyển biến mà. Thức là năng biến, tất cả cảnh giới là sở biến. Chúng tôi nói nhân quả bất không, chư vị xem năng biến sở biến đều bao hàm trong đó, đạo lý là như vậy. Quan sát của họ rất thâm nhập, quan sát của họ rất chính xác. Nhưng chư vị phải biết, nó không phải đệ nhất nghĩa, nó là đệ nhị nghĩa. Đệ nhất nghĩa là gì? Đệ nhất nghĩa là tự tánh, là thể của thức, thể của thức chính là tự tánh, tự tánh là không tịch. Trong kinh thường dùng tịch tịnh, dùng tịch diệt, dùng hai chữ này để hình dung nó. Vạn pháp giai không là nói từ thể, nhân quả bất không là nói từ chuyển biến, nói từ sự. Giữa vũ trụ có hai loại này, ngoài ra đều là sở biến, đều là hư vọng. “Chư Phật ngộ chi”. Chư Phật ở đây và chư Phật nói trong Kinh Kim Cang là một. Viên giáo sơ trụ trở lên đều gọi là Phật, 41 vị pháp thân đại sĩ gọi là chư Phật. Họ phá nhất phẩm vô minh, thấy một phần tự tánh. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Thiên thai tông gọi là “phần chứng tức Phật”, phần chứng tức Phật trong Lục Tức Phật, đây là thật không phải giả. Họ dùng chân tâm, chân tâm chính là tự tánh.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Mời mở kinh ra, xem trang thứ nhất nói về luân quán. Từ xưa đến nay, chư vị tổ sư đại đức giảng kinh chú sớ, trước khi vào giảng kinh văn, trước tiên nhất định phải đem đại ý toàn kinh, giới thiệu một cách khái lược cho thính chúng, cổ nhân dùng rất nhiều danh từ để giới thiệu. Chúng ta thường thấy nhất, như tông Thiên thai nói về ngũ trùng huyền nghĩa. Ngài Hiền Thủ nói về mười môn khai khởi. Đều là giới thiệu trước khi giảng kinh, cũng có người gọi là luận quán. Như ở đây chúng ta nhìn thấy chú giải, là pháp sư Thanh Liên thời Khang Hy, pháp danh của ngài là Linh Kiệt. Ở đây chư vị có thể thấy, chữ kiệt này viết theo chữ cổ, bây giờ không phải viết như thế, chính là thừa của đại tiểu thừa, đây là cách viết ngày xưa_Pháp danh Linh Kiệt. Ngài dùng là luận quán, cũng thuộc tính chất này. Chúng ta xem kỹ nội dụng luận quán, trong này bao hàm ngũ trùng huyền nghĩa của Thiên thai tông, mà còn phong phú hơn nội dung của ngũ trùng huyền nghĩa. Ở trước có một đoạn tựa, hôm nay chúng ta xem trang thứ nhất chính là bài tựa. Bài tựa không dài lắm, chỉ trong một trang này. Trong bài tựa tất cả phân thành năm đoạn, đối với người học giáo lý như chúng ta mà nói, nó rất quan trọng. Cho dù đối với người học Phật bình thường mà nói, cũng cần phải biết, khiến chúng ta sanh khởi tín tâm kiên cố đối với Phật pháp. Như đoạn văn tự này, trong các bậc cổ đức cũng có rất nhiều người nói đến, nhưng đoạn văn này của ngài nói vô cùng rõ ràng. Đoạn thứ nhất, chúng ta đọc qua một lượt đoạn văn này: “Nguyên phu nhất niệm tự tánh, thể nguyên trạm tịch, tự tánh chi tâm, dụng bổn hư linh, vô tướng vô danh, tuyệt tư tuyệt nghị, tác quần sanh chi y chỉ, vi vạn pháp chi căn nguyên, cứu cánh hiệu trung đạo chánh không, bao mỹ xưng đệ nhất nghĩa đế”. Đến đây là một đoạn, đoạn này là thuật lại căn nguyên của pháp giới cho chúng ta, hoặc nói về căn nguyên của pháp tánh. Chư vị phải biết, pháp tánh và pháp giới là một vấn đề. Pháp tánh là từ thể mà nói, pháp giới là từ dụng mà nói, có thể có dụng, thể dụng là một không phải hai. Đây là từ đâu đến, nếu nói như hiện nay, vũ trụ vạn pháp từ đâu đến? ánh biến hiện ra, tự tánh là gì? Là nhất niệm, nhất niệm rất khó lãnh hội. Nhất niệm chính là chân như, chính là bổn tánh, chính là chân tâm. Vì sao khó lãnh hội? Vì ngày nay chúng ta muốn lãnh hội đã rơi vào hai niệm ba niệm, không phải một niệm. Chư vị phải biết, nếu có thể nhìn thấy nhất niệm, có thể khế nhập nhất niệm, trong Phật pháp nói ta đã thành Phật. Trong thiền tông gọi là “Mminh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, tánh chính là nhất niệm. Tu học Phật pháp, bất luận tông phái nào, mục tiêu sau cùng chính là nhất niệm. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh”, Tịnh tông gọi là “nhất tâm bất loạn”. Nhất niệm nghĩa là nhất tâm, nếu chứng được nhất tâm tức là thành Phật. Phật này không phải Phật bình thường, đại sư Thiên Thai gọi là quả Phật cứu cánh viên mãn. Nhất niệm khó, nhất niệm là căn nguyên, bổn thể của vũ trụ vạn pháp.